Một là, cần trang bị kiến thức, thống nhất về tư tưởng và hành động cho cán bộ, đảng viên về kinh tế số, cơ hội và thách thức của Việt Nam trong đối ngoại và hội nhập quốc tế trong môi trường kinh tế số, từ đó làm chuyển biến mạnh mẽ tư duy lãnh đạo quản lý và điều hành kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế số. Việt Nam cần xác định chiến lược phát triển và hội nhập kinh tế số là xu thế của thời đại, là hướng đi quan trọng và cần thiết trong định hướng phát triển quốc gia và hội nhập quốc tế, là cơ hội cho Việt Nam bứt phá. Môi trường CMCN 4.0 và kinh tế số cần một cuộc cách mạng trong tư duy quản lý và xây dựng thể chế, chính sách để tạo môi trường và không gian cho đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển. Mọi biểu hiện của tư duy “xin - cho”, bảo vệ lợi ích nhóm hay mệnh lệnh hành chính gây phiền hà theo kiểu không quản hay không nắm được thì hạn chế, cấm đoán không còn phù hợp đối với quản trị quốc gia, quản lý kinh tế và doanh nghiệp trong kinh tế số. Cần sớm chuyển sang tư duy quản trị và điều hành theo hướng cái gì không quy định cấm thì người dân và doanh nghiệp được phép làm; những mô hình, phương thức kinh doanh mới mà chưa rõ, chưa quản được nhưng không gây hại thì thử nghiệm cho hoạt động, và từ yêu cầu thực tiễn nghiên cứu, tìm phương thức quản lý phù hợp, vừa tìm hiểu, học hỏi và thích ứng. Phải biết tiếp nhận những mô hình, ý tưởng kinh doanh mới, khuyến khích cái mới, tạo môi trường, điều kiện và cơ hội cho cái mới ra đời và phát triển.
Hai là, xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế mới trong thời đại kinh tế số, thực hiện “đổi mới” và “hội nhập” vào thị trường kinh tế số toàn cầu, đi đôi với kích thích phát triển và hỗ trợ đúng mức để nuôi dưỡng và thúc đẩy các doanh nghiệp số trong nước không ngừng lớn mạnh. Chiến lược hội nhập quốc tế cần kết hợp vừa “mở cửa, hội nhập” thị trường kinh tế số, vừa phải có chiến lược thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam thông qua chính sách hỗ trợ và ưu đãi có chọn lọc, nhất là với những doanh nghiệp công nghệ nội địa tiềm năng vươn lên chiếm lĩnh thị trường trong nước và sớm đủ sức vươn ra cạnh tranh với bên ngoài.
Việt Nam có tiềm năng phát triển kinh tế số rất lớn nhưng quy mô thị trường, khả năng đổi mới sáng tạo còn hạn chế, trình độ phát triển công nghệ của Việt Nam mới ở những bước đi đầu tiên, còn khoảng cách không nhỏ so với thế giới và khu vực. Vì vậy, cần phải xác định lộ trình hội nhập hợp lý nhằm tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp số trong nước trưởng thành và vươn lên.
Trước mắt có thể tạo thuận lợi và hỗ trợ phát triển một số tập đoàn, doanh nghiệp công nghệ và thương hiệu kinh tế số trong nước đã có chỗ đứng, như FPT, Viettel, Vin Group, Tiki, Sendo..., có chính sách ưu đãi với ngành công nghiệp phần mềm, các công viên phần mềm, các khu và dự án công nghệ cao. Với tiềm năng thị trường và xu thế phát triển nhanh chóng của kinh tế số ở Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp kinh tế số trong nước trước hết phải đặc biệt coi trọng phát triển và chiếm lĩnh thị trường nội địa như bàn đạp cho sự phát triển bền vững cả trước mắt và lâu dài.
Song song đó, hội nhập thị trường kinh tế số với bên ngoài, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghệ có nguồn gốc nước ngoài vào Việt Nam khởi nghiệp, hoạt động kinh doanh để thúc đẩy cạnh tranh. Tuy nhiên, cần xây dựng quy hoạch và chiến lược hội nhập, thu hút đầu tư trong bối cảnh mới, theo đó cần chủ động nhắm tới các tập đoàn, doanh nghiệp lớn về công nghệ của thế giới, định hướng phát triển ngành, lĩnh vực và vùng một cách hợp lý, tránh cạnh tranh giữa các địa phương. Trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đã tới lúc cần cơ cấu lại mạnh mẽ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, sàng lọc, lựa chọn và phân loại cơ cấu đầu tư theo hướng không dễ dãi trong thu hút đầu tư, hướng tới các dự án đầu tư có chất lượng, những ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp công nghệ cao, cam kết lâu dài, mang lại giá trị gia tăng lớn gắn với định hướng vào R&D tại chỗ và chuyển giao công nghệ cho Việt Nam, tránh việc trở thành nơi chuyển giao các doanh nghiệp và công nghệ lạc hậu của các nước.
Ba là, Việt Nam cần chủ động tìm hiểu và tham gia các nỗ lực quốc tế, các cơ chế, sáng kiến hợp tác, liên kết quốc tế, khu vực, đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp chính sách với các quốc gia trên bình diện cả song phương lẫn đa phương ở các lĩnh vực liên quan đến phát triển kinh tế số và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ liên quốc gia từ quá trình phát triển kinh tế số hiện nay. Các lĩnh vực hợp tác quan trọng, bao gồm thu thuế xuyên biên giới qua không gian mạng, bảo đảm an ninh an toàn không gian mạng, bảo mật dữ liệu và quyền riêng tư, ngăn chặn và chống các loại tội phạm công nghệ, tạo thuận lợi cho kết nối hạ tầng và thanh toán số nhằm hỗ trợ các giao dịch xuyên quốc gia, bảo vệ người tiêu dùng xuyên biên giới, xử lý tranh chấp pháp lý về quyền và lợi ích kinh tế qua không gian mạng xuyên biên giới, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ... Trong khía cạnh này cần coi trọng thúc đẩy hợp tác trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu, như ASEAN, Liên hợp quốc, APEC... nhằm xây dựng những quy tắc phối hợp và ứng xử chung, các hiệp định, công ước và thỏa thuận hợp tác, phối hợp trên những vấn đề liên quan nảy sinh từ sự phát triển của kinh tế số.
Bốn là, quan tâm thúc đẩy cải cách và số hóa những cơ quan, lĩnh vực hoạt động liên quan đến đối ngoại, hợp tác và hội nhập quốc tế. Các cơ quan làm đối ngoại trong nước cũng như các cơ quan đại diện của Nhà nước Việt Nam ở nước ngoài cần đi đầu trong công tác số hóa ngành bao gồm việc xây dựng kết cấu hạ tầng dữ liệu quốc gia cho ngoại giao số, xây dựng chiến lược quản trị công tác đối ngoại, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính liên quan đến đối ngoại, như đơn giản hóa, số hóa, điện tử hóa, minh bạch hóa thông tin, đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước hợp tác đầu tư với bên ngoài... Bên cạnh đó, cần thúc đẩy mạnh mẽ ngoại giao số, đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ nhân lực làm công tác đối ngoại, nhất là cán bộ các cơ quan đại diện của Nhà nước Việt Nam ở nước ngoài có phẩm chất chính trị, có kiến thức, am hiểu về kinh tế số, có tư duy, tầm nhìn mới đáp ứng yêu cầu ngoại giao số, có khả năng bảo vệ, hỗ trợ và thúc đẩy các lợi ích của quốc gia và doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường hội nhập vào kinh tế số toàn cầu.
Ngoài ra, để thúc đẩy kinh tế số thì yếu tố nội lực, sức mạnh quốc gia và sự chuẩn bị các điều kiện trong nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong khía cạnh này, các vấn đề sau đây cần được lưu ý:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện môi trường thể chế, pháp lý đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập quốc tế trong điều kiện kinh tế số.
Trước hết, cần nhanh chóng xác lập và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam cũng như Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng bảo đảm tuân thủ các quy luật khách quan của kinh tế thị trường và hội nhập, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đầu tư, kinh doanh trong môi trường kinh tế số; tạo lập, khuyến khích và bảo đảm sân chơi bình đẳng, lành mạnh giữa các loại hình doanh nghiệp và thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trực tuyến và ngoại tuyến về môi trường khởi nghiệp, đầu tư, về quyền và nghĩa vụ thuế; cải cách và hoàn thiện hệ thống luật pháp theo yêu cầu hội nhập và phát triển kinh tế số, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế trong môi trường kinh tế số. Các hoạt động kinh doanh trực tuyến và TMĐT xuyên biên giới có nguồn gốc từ bên ngoài hiện đang hoạt động ở Việt Nam cần được xem xét nghĩa vụ thuế, nếu không chúng ta vừa thất thu thuế, vừa vô hình đang bảo hộ ngược cho các doanh nghiệp số nước ngoài hoạt động ở Việt Nam. Việc xây dựng hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế số cũng cần tính đến xu thế phát triển và tác động của các đồng tiền kỹ thuật số, như Bitcoin, Libra Coin, hay sự nở rộ của thị trường Forex trong giao dịch kinh tế và thị trường tài chính ảo. Cùng với đó là hoàn thiện hệ thống luật pháp và cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính liên quan trực tiếp tới kinh tế số, như xây dựng luật văn bản điện tử, chữ ký số...
Thứ hai, tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng cứng và mềm cho chuyển đổi số và phát triển nền kinh tế số quốc gia.
Chính phủ đầu tư phát triển và phổ cập hóa kết cấu hạ tầng in-tơ-nét băng thông rộng toàn quốc, nhanh chóng triển khai các dịch vụ 5G, bảo đảm việc tiếp cận điện năng, chú trọng phát triển các lĩnh vực công nghệ cốt lõi của CMCN 4.0. Để tạo điều kiện cho phát triển thương mại điện tử thì hệ thống thanh toán điện tử quốc gia, hạ tầng chứng thực chứng từ điện tử và hỗ trợ xác thực thông tin giao dịch, các hệ thống quản lý, giám sát giao dịch điện tử, các cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử... cần sớm được hoàn thiện. Cùng với nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng cứng, Việt Nam cần tập trung đột phá về hạ tầng thể chế, đầu tư mạnh mẽ cho khoa học - công nghệ và giáo dục, coi trọng đổi mới giáo dục, đào tạo theo yêu cầu của CMCN 4.0 và kinh tế số. Điều này bao gồm xây dựng chiến lược đào tạo và thu hút tài năng công nghệ trong và ngoài nước, phát triển nguồn nhân lực công nghệ, nhất là công nghệ thông tin cả về lượng và chất, đổi mới và cập nhật chương trình, giáo trình đào tạo của thế giới gắn với xu thế phát triển kinh tế số, nhất là đào tạo nhân lực công nghệ thông tin, tài chính công nghệ trong thời đại số, tạo điều kiện để học sinh các cấp sớm tiếp cận tri thức về công nghệ thông tin và những lĩnh vực công nghệ lõi của CMCN 4.0.
Thứ ba, hỗ trợ nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời chú trọng bồi dưỡng, phổ biến, trang bị kiến thức cho đội ngũ doanh nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu của kinh tế số và xu thế CMCN 4.0 cũng như thích ứng với hội nhập vào thị trường thế giới trong thời kỳ mới.
Có kiến thức và tư duy về kinh tế số là quan trọng nhưng có tư duy hội nhập, thích ứng với thị trường kinh tế số quốc tế và xu hướng CMCN 4.0 càng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ trước môi trường cạnh tranh ngày càng mang tính quốc tế qua không gian mạng. Tư duy quản trị và vận hành doanh nghiệp chuyên nghiệp, theo quy chuẩn quốc tế cũng cần được chú ý định hình trong mỗi doanh nghiệp và toàn nền kinh tế.
Thứ tư, tiếp tục khơi dậy tinh thần dân tộc, lý tưởng và khát vọng đưa dân tộc đi tới thịnh vượng, từ đó khơi dậy và tạo động lực cho văn hóa khởi nghiệp của người Việt Nam, nhất là trong tầng lớp thanh niên.
Để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và tinh thần dân tộc của thanh niên trong thời đại kinh tế số, Nhà nước cần coi trọng khu vực kinh tế tư nhân, coi đó là động lực hàng đầu cho phát triển của đất nước nói chung và phát triển kinh tế số nói riêng.
Thứ năm, Chính phủ cần đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu nền kinh tế số và đi tiên phong trong quá trình số hóa bộ máy quản trị quốc gia.
Điều này bao gồm việc cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia, xây dựng một nền hành chính công vụ thông minh, gọn nhẹ, kỷ cương, liêm chính và kiến tạo, đột phá trong tinh giản hóa và nâng cao hiệu quả quản trị của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương, chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy quản trị điều hành, mạnh mẽ xóa bỏ các tổ chức quản lý trung gian, nhanh chóng và đồng bộ số hóa bộ máy quản lý nhà nước các cấp cũng như xây dựng và triển khai chiến lược, các chính sách thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và doanh nghiệp.
Thứ sáu, coi trọng công tác bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh thông tin, an ninh chính trị, an ninh văn hóa và an ninh quốc gia nói chung qua không gian mạng, giám sát và phòng, chống hiệu quả các loại tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao. Điều này cần được chú ý cả ở cấp quốc gia cũng như trong mỗi cơ quan, đơn vị các cấp và từng doanh nghiệp, nhất là hệ thống tài chính - tiền tệ và các cơ quan chính phủ được số hóa./.
Với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ như hiện nay, ngành thương mại điện tử của Việt Nam được dự báo có thể tăng mạnh lên tới 30% - 50%/năm và quy mô thị trường thương mại điện tử có thể đạt từ 13 đến 15 tỷ USD vào năm 2020. |
Việt Nam cần tạo môi trường và hỗ trợ thúc đẩy các hoạt động khởi nghiệp (startup) công nghệ trong nước, chú trọng đầu tư cho khoa học - công nghệ, tạo môi trường cho việc vươn lên tự chủ và nội sinh hóa nền khoa học - công nghệ quốc gia thông qua hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đặc biệt quan tâm đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) ở trong nước trước bối cảnh bảo vệ sở hữu trí tuệ và bí quyết công nghệ, nhất là công nghệ cao có xu hướng gia tăng. |
PGS. TS PHAN VĂN RÂN - Viện trưởng Viện Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
TS. NGÔ CHÍ NGUYỆN - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh