[In trang]
Phát triển ứng dụng công nghệ bức xạ tại Việt Nam: Một số khó khăn, thách thức và triển vọng
Thứ tư, 24/07/2019 - 09:43
Mặc dù công nghệ bức xạ mới thực sự được các nhà khoa học Việt Nam quan tâm nghiên cứu từ cuối thập niên 1980, ứng dụng của nó đã phát triển rất nhanh và có mặt trong nhiều lĩnh vực khác nhau từ công nghiệp, nông nghiệp, y dược đến kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Mặc dù công nghệ bức xạ mới thực sự được các nhà khoa học Việt Nam quan tâm nghiên cứu từ cuối thập niên 1980, ứng dụng của nó đã phát triển rất nhanh và có mặt trong nhiều lĩnh vực khác nhau từ công nghiệp, nông nghiệp, y dược đến kiểm soát ô nhiễm môi trường. Nhiều kết quả nghiên cứu đã được chuyển giao và áp dụng trên quy mô lớn để cung cấp giống cây trồng đột biến mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, nâng cao chất lượng và thời gian bảo quản nông sản và sản phẩm phi thực phẩm khác, biến đổi các polyme, chế tạo vật liệu hiệu năng cao… phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, được đánh giá bằng sự ra đời của ngành công nghiệp xử lý chiếu xạ. Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp non trẻ này đã đạt doanh thu trên 10 triệu USD mỗi năm, và dự kiến sẽ tăng trưởng khoảng 20% trong thập kỷ tới, với sự mở rộng và thành lập các cơ sở chiếu xạ mới ở khu vực miền Bắc và miền Trung.

Việc phát triển ứng dụng công nghệ bức xạ ở nước ta cũng gặp một số vấn đề như: đầu tư ban đầu cao nên một số ứng dụng như chiếu xạ khử trùng y tế, biến đổi polyme chưa thể cạnh tranh về chi phí với các công nghệ truyền thống; gia tăng chi phí đối với các cơ sở chiếu xạ sử dụng thiết bị chiếu xạ gamma do nguồn cung Cobalt-60 giảm và các chi phí phát sinh nhằm đảm bảo an toàn, an ninh nguồn phóng xạ trong quá trình vận chuyển, lắp đặt và sử dụng; khó mở rộng thị trường cho chiếu xạ thực phẩm do mới chỉ có một số quốc gia chấp nhận thực phẩm chiếu xạ, trong khi người dân cũng như các doanh nghiệp sản và kinh doanh sản phẩm nông nghiệp vẫn chưa được tiếp cận đủ thông tin nên vẫn còn tâm lý e ngại; cũng như thiếu các nhà khoa học có trình độ cao để nghiên cứu và phát triển các ứng dụng mới. Những điều này đặt ra thách thức rất lớn cho các nhà khoa học và quản lý để tăng cường khả năng cạnh tranh và mở rộng ứng dụng công nghệ bức xạ nhằm nâng cao đóng góp của ngành công nghiệp chiếu xạ vào GDP tương xứng với tiềm năng như đạt được ở các nước công nghiệp phát triển. Việc hợp tác nghiên cứu nhằm làm chủ các thiết bị chiếu xạ sử dụng điện năng như máy gia tốc chùm điện tử (EB) và máy chiếu xạ tia X sẽ giúp người tiêu dùng hết e ngại với thực phẩm chiếu xạ, chiếu xạ biến đổi polyme liều cao dễ dàng thực hiện, các ứng dụng mới cũng được nghiên cứu và chuyển giao phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội trong thời gian tới. Rõ ràng, dư địa và triển vọng phát triển công nghệ bức xạ ở Việt Nam là rất lớn, nhất là khi có được những định hướng phát triển đúng đắn như “Chiến lược Ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến 2020” và kế hoạch phát triển ngành năng lượng nguyên tử trong những năm gần đây.

MỞ ĐẦU

Công nghệ bức xạ (CNBX) khai thác các hiệu ứng vật lý, hóa học và sinh học của bức xạ trong vật chất sống và không sống, làm thay đổi một số tính chất nhất định của đối tượng nhằm tận dụng chúng một cách hiệu quả hơn cho đời sống con người. Ngay từ khi nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel khám phá ra hiện tượng phóng xạ, các dạng bức xạ và chất đồng vị phóng xạ (ĐVPX) đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, mãi đến sau chiến tranh thế giới thứ 2, khi các nguồn ĐVPX trở nên sẵn có nhờ sự phát triển nhanh trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử và vũ khí hạt nhân, công nghệ bức xạ mới có được những bước tiến quan trọng với những thành tựu trong bảo quản lương thực thực phẩm, xử lý thanh tiệt trùng hàng hóa, gây đột biến tạo giống, sửa đổi đặc tính polyme...

Cùng với hiểu biết ngày càng sâu rộng về tương tác của bức xạ với vật chất, sự phát triển công nghệ lò phản ứng trong và sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã cung cấp các nguồn đồng vị phóng xạ chính là cobalt-60 (60Co) và caesium-137 (137Cs) để phát triển các thiết bị chiếu xạ gamma cuối thập niên 1950. Từ đó, hàng loạt các ứng dụng công nghệ bức xạ trong y tế, nông nghiệp, công nghiệp… đã được phát triển. Sự ra đời của máy gia tốc điện tử tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ bức xạ, nhất là trong xử lý chiếu xạ quy mô công nghiệp và kiểm soát ô nhiễm môi trường, nhờ thiết bị chiếu xạ sử dụng nguồn điện có thể xử lý với liều cao và suất liều cao, cũng như tính linh động và ít đòi hỏi các biện pháp an toàn, an ninh như đối với nguồn đồng vị phóng xạ.

I. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ BỨC XẠ Ở VIỆT NAM

Ở Việt Nam, ứng dụng công nghệ bức xạ đầu tiên là trong lĩnh vực y tế, với kỹ thuật chụp ảnh X-quang và xạ trị bằng kim Radium từ những năm 1920 tại Viện Curie Đông Dương, tức bệnh viện K ngày nay. Mãi đến thập niên 1970, mộtsố nghiên cứu về ảnh hưởng của bức xạ gamma đối với côn trùng, vi sinh vật mới được thực hiện nhằm tạo giống cây trồng đột biến và diệt côn trùng, vi khuẩn và ký sinh trùng để bảo quản thực phẩm. Bước vào thời kỳ đổi mới cuối thập niên 1980, với sự giúp đỡ của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Viện NLNTVN) đã thành lập Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội để tiếp nhận thiết bị chiếu xạ bán công nghiệp cho mục đích nghiên cứu và triển khai công nghệ chiếu xạ thực phẩm. Từ đó, hàng loạt nghiên cứu trong lĩnh vực này đã được thực hiện, với kết quả tái khẳng định ưu điểm công nghệ trong việc chọn tạo giống cây trồng đột biến, giảm tổn thất lương thực, thực phẩm, kéo dài thời gian bảo quản hàng hóa… Kết quả này cho phép Viện NLNTVN đầu tư xây dựng cơ sở nghiên cứu triển khai ứng dụng công nghệ bức xạ mới tại thành phố Hồ Chí Minh (Vinagamma). Kể từ đó, ứng dụng xử lý chiếu xạ thanh tiệt trùng bảo quản hàng hóa quy mô công nghiệp đã được phát triển, với sự ra đời của các cơ sở chiếu xạ tư nhân như công ty Sonson, chiếu xạ An Phú, tập đoàn Thái Sơn. Thông qua các chương trình hợp tác song phương và đa phương, Viện NLNTVN đã thúc đẩy hoạt động nghiên cứu ứng dụng công nghệ bức xạ trong biến đổi đặc tính polyme như cắt mạch, khâu mạch và ghép mạch. Một số polysaccharide cắt mạch có hoạt tính sinh học cải thiện được dùng làm chế phẩm kích thích, điều hòa sinh trưởng và kích kháng bệnh thực vật; gel khâu mạch làm chất mang, màng chữa bỏng, vật liệu siêu hấp thụ nước; vật liệu ghép bức xạdùng để hấp phụ các kim loại quý, xử lý môi trường; vật liệu nano, hệ dẫn thuốc, dung dịch kháng khuẩn, phân bón cũng được nghiên cứu và phát triển cho ứng dụng trong nông, công nghiệp, y tế và kiểm soát ô nhiễm môitrường.

Có thể chia quá trình phát triển Công nghệ bức xạ ở Việt Nam thành hai giai đoạn: trước và sau năm 2000. Trong đó, giai đoạn trước năm 2000 tập trung chủ yếu vào công tác xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ, với kết quả đã phát triển được nguồn nhân lực chất lượng cao, và trang bị nhiều nguồn phóng xạ, thiết bị phân tích và đo lường phục vụ nghiên cứu; và sau năm 2000 là giai đoạn tăng cường chuyển giao công nghệ, thúc đẩy các ứng dụng thực tiễn, với sự ra đời của ngành công nghiệp chiếu xạ. Việc cho phép các công ty tư nhân đầu tư phát triển ứng dụng chiếu xạ đã đem lại thành công to lớn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Có thể khẳng định, ngành công nghiệp chiếu xạ non trẻ đã tạo được nhiều công việc mới, góp phần tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu một số nông sản như thủy hải sản tươi sống và lạnh đông, gia vị và dược liệu, hoa quả tươi… góp phần cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh lương thực, hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng ở nước ta.

Hình 1. Tạo và chọn giống đậu tương đen đột biến bằng bức xạ gamma tại Viện Di truyền Nông nghiệp

Thông qua các chương  trình  hợp  tác  kỹ thuật TCP và phối hợp nghiên cứu CRP do IAEA hỗ trợ, 30 giống đột biến phóng xạ gồm 17 giống lúa, 10 giống đậu tương, 2 giống ngô và 1 giống hoa cúc đã được phát triển và cung cấp cho sản xuất nông nghiệp. Hầu hết các giống đột biến phóng xạ tạo được là giống cao sản, với khả năng chống chịu sâu bệnh cải thiện. Hiện trên 50% vùng trồng đậu tương sử dụng giống DT-2008 tạo ra từ đột biến của Viện Di truyền nông nghiệp Việt Nam, đóng góp vào sản xuất dầu thực vật. Trong những năm 1990, giống lúa đột biến VND95-20 cho năng suất cao do Viện Khoa học nông nghiệp miền Nam phát triển đã được trồng rộng rãi và trở thành một trong 5 giống lúa được trồng nhiều nhất trên cả nước, đưa Việt Nam từ một nước thiếu lương thực, thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Hàng triệu người dân đã được hưởng lợi từ việc trồng lúa DT-10 có sản lượng gần 40% cao hơn so với giống cũ. Thành công của chương trình chọn tạo giống đột biến ở Việt Nam, với việc cung cấp cho người dân gần 50 giống lúa mới có được một phần là do việc triển khai ứng dụng công nghệ bức xạ và kỹ thuật hạt nhân trong nông nghiệp.

Việc kết hợp kỹ thuật nuôi cấy mô và sử dụng chỉ thị phân tử cũng góp phần rút ngắn thời gian chọn tạo giống đột biến, cung cấp thêm một số giống đột biến phóng xạ cho chương trình mục tiêu quốc gia “Xóa đói giảm nghèo”, để trồng ở vùng sâu, vùng xa và cao nguyên nơi có diện tích tự nhiên khoảng 5,5 triệu ha, với 4,3 triệu dân thuộc 37 dân tộc thiểu số khác nhau, giúp cải thiện đời sống đồng bảo dân tộc.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếu xạ cũng đã góp phần giảm tổn thất lương thực, thực phẩm sau thu hoạch, giúp đảm bảo an ninh lương thực, đồng thời cung cấp sản phẩm an toàn cho người dân trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh. Bằng cách tiêu diệt các côn trùng, ký sinh trùng gây bệnh, giảm lượng vi sinh vật, nấm mốc gây thối hỏng, công nghệ chiếu xạ thực phẩm cũng giúp nâng cao chất lượng và kéo dài thời gian bảo quản nông sản, thúc đẩy xuất khẩu hoa quả tươi, thủy hải sản sang các nước phát triển. Thành công của nghiên cứu và ứng dụng chiếu xạ thực phẩm của Việt Nam đã được IAEA ghi nhận, và Viện NLNTVN (VINATOM) đã trở thành địa chỉ tin cậy cho các nước đến tham quan và học tập trong lĩnh vực này. Mới đây, Dự án thúc đẩy ứng dụng chiếu xạ thực phẩm đảm bảo an ninh lương thực bằng cách tăng cường ứng dụng máy chiếu xạ EB và tia X của VINATOM đã được IAEA chấp nhận, trong đó Việt Nam trở thành nước dẫn dắt dự án. Việc thực hiện dự án RAS này không chỉ giúp nâng cao vị thế của VINATOM, mà còn mở ra cơ hội mở rộng thị trường cho thực phẩm chiếu xạ Việt Nam, đồng thời đem lại giá trị gia tăng cho hàng nông sản Việt Nam.

 

Hình 2. Lập bản đồ liều hấp thụ cho quản nhãn chiếu xạ kiểm dịch tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội

Thêm vào đó, những kỹ thuật mới nhằm tăng cường ứng dụng CNBX trong nông nghiệp như kỹ thuật tiệt sinh côn trùng bằng bức xạ (SIT) cũng được phát triển. VINATOM đã phối hợp với Viện bảo vệ thực vật thực hiện dự án triển khai ứng dụng SIT kiểm soát ruồi đục quả Bactrocera dosalis Hendel trên quả thanh long Bình Thuận. Kết quả cho thấy chỉ cần áp dụng liều xạ 80-90 kGy có thể tạo được dòng côn trùng bất dục đực, phóng thích vào tự nhiên để giao phối với con cái hoang dã, làm giảm dần mật độ quần thể tiến tới tiêu diệt hoàn toàn loài ruồi đục quả này ở khu vực Bình Thuận.

Chiếu xạ thanh tiệt trùng quy mô công nghiệp cũng đóng góp lớn để bảo quản dược liệu, giúp phát triển các sản phẩm thuốc đông y, thực phẩm chức năng đạt chất lượng. Chiếu xạ khử trùng tế đã chứng minh được hiệu quả trong sản xuất chỉ khâu phẫu thuật, găng tay mổ, cũng như đảm bảo vô trùng cho các vật dụng tế, cung cấp hàng chục nghìn mẫu mô ghép, màng chữa bỏng cho các bệnh nhân mỗi năm. Xử lý chiếu xạ biến đổi tính chất vật liệu, đổi màu đá quý… cũng được nghiên cứu với một số sản phẩm polyme khâu mạch bền nhiệt, vật liệu co nhiệt, chất trợ dệt, vật liệu hấp phụ dùng trong công nghiệp và kiểm soát ô nhiễm môi trường. Các nghiên cứu bước đầu đã khẳng định hiệu quả của xử lý chiếu xạ trong việc khử trùng chất thải rắn, cho phép tái sử dụng rác thải sinh hoạt cũng như các phế phụ phẩm nông nghiệp khác làm cơ chất sản xuất phân bón. Chiếu xạ phân hủy phenol, hợp chất ô nhiễm hữu cơ trong nước thải cũng được nghiên cứu tại một số đơn vị trực thuộc của VINATOM. Chiếu xạ EB giúp giảm nhu cầu ôxy hóa học COD, khử màu nước thải dệt nhuộm… Công nghệ bức xạ cũng được ứng dụng trong chế tạo một số loại vật liệu hấp phụ, vật liệu nano kim loại dùng trong xử lý ô nhiễm, làm sạch môi trường.

I. MỘT SỐ KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC TRONG THỜI GIAN TỚI

Có thể thấy rằng, dù công nghệ bức xạ đã phát triển tương đối nhanh ở Việt Nam, song hiện đang gặp phải một số khó khăn nhất định như đầu tư cao, gia tăng chi phí cho các vấn đề liên quan, khó mở rộng thị trường và thiếu nhân lực trình độ cao cho nghiên cứu triển khai. Hiện nay, thiết bị chiếu xạ công nghiệp dùng nguồn đồng vị phóng xạ 60Co đang chiếm ưu thế nhờ tính an toàn, đơn giản và độ tin cậy cao, máy chiếu xạ sử dụng năng lượng điện ngày càng được quan tâm dù vận hành phức tạp, khó kiểm soát liều hấp thụ. Tuy nhiên, nguồn cung cấp đồng vị phóng xạ 60Co dường như không đủ cho nhu cầu chiếu xạ ngày càng tăng trên phạm vi toàn cầu. Trên 60% quặng Co nằm ở Cộng hòa Công-gô, trong khi việc khai thác, chế biến lại phụ thuộc nhu cầu thế giới về đồng (Cu) và niken (Ni) hơn là chính Co. Điều này làm cho chi phí đầu tư ban đầu tăng cao, hạn chế khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các thiết bị chiếu xạ EB công suất thấp dù đã khẳng định tính hiệu quả khi được đồng bộ hóa vào các cơ sở công nghiệp như sản xuất màng co nhiệt, bọt foam khâu mạch, cáp cách điện… song chi phí cao và khó khăn trong việc đào tạo cán bộ vận hành cũng hạn chế khả năng ứng dụng trong lĩnh vực công nghiệp.

Những lo ngại về vấn đề an toàn, an ninh liên quan đến vận chuyển, quản lý và sử dụng các nguồn đồng vị phóng xạ hoạt độ cao cũng đang làm gia tăng chi phí và tính không chắc chắn trong việc cung cấp nguồn đồng vị 60Co, nhất là trong tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay. Việc quản lý các nguồn đồng vị đã qua sử dụng cũng làm phát sinh chi phí, mặc dù Viện NLNTVN đã được đầu tư xây dựng các cơ sở lưu giữ nguồn theo chuẩn quốc tế tại Viện Nghiên cứu hạt nhân (Đà Lạt) và Viện Khoa học Kỹ thuật hạt nhân. Tất cả các yếu tố này làm gia tăng chi phí xử lý, giảm khả năng cạnh tranh của công nghệ bức xạ so với các biện pháp truyền thống như xử lý nhiệt, hóa chất… Khả năng mở rộng thị trường cũng là một trong những vấn đề khó khăn vì nhiều quốc gia không sẵn sàng chấp nhận thực phẩm chiếu xạ dù biết rõ tính lành của thực phẩm chiếu xạ như Nhật Bản. Ngoài Hoa Kỳ, Úc và Chi-lê thì các nước khác chỉ chấp nhập một số thực phẩm chiếu xạ nhất định. Thêm vào đó, chi phí chiếu xạ khử trùng y tế còn cao nên hiện chỉ các sản phẩm đòi hỏi chất lượng cao như mô ghép mới được chiếu xạ, nhiều vật dụng y tế khác vẫn được khử trùng bằng phương pháp xông hóa chất, ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng và môi trường.

Những điều này đặt ra thách thức rất lớn cho các nhà khoa học và quản lý. Làm thế nàođể chủ động về công nghệ, giảm chi phí xử lý chiếu xạ; hoàn thiện các quy phạm pháp luật nhằm đổi mới công nghệ, thay thế các công nghệ gây ô nhiễm bằng công nghệ bức xạ, cũng như giatăng khả năng chấp nhận của người tiêu dùng đối với thực phẩm và các sản phẩm chiếu xạ khác để mở rộng thị trường. Tất nhiên, còn có cả những thách thức từ bên ngoài như cạnh tranh của các quốc gia đang phát triển khác, những nước cũng đang nỗ lực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ bức xạ phục vụ xuất khẩu như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan… Tiếp tục thực hiện “Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì hòa bình đến 2020”, cũngnhư các kế hoạch phát triển ngành khác sẽ giúp Việt Nam chủ động đối mặt với các thách thức từ bên trong và bên ngoài. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hợp tác trong và ngoài nước, nhất là các chươngtrình hợp tác song phương với các quốc gia phát triển, và hợp tác vùng của IAEA sẽ giúp VINATOM làm chủ các công nghệ mới như kỹ thuật gây tạo đột biến, chọn giống cây trồng, vật nuôi có các tính trạng mới mà không bị hồi biến trong thời gian dài bằng phương pháp chiếu xạ chùm điện tử, chùm ion nặng, kỹ thuật phân biệt đồng vị carbon (Carbon Isotope Discrimination - CID) để rút ngắn thời gian sàng lọc trong chọn giống cây trồng đột biến, phát triển các công nghệ xử lý chiếu xạ mới không sử dụng chất đồng vị phóng xạ hay biến đổi tính chất polyme, chế tạo vật liệu hiệu năng cao, các sản phẩm mới nhằm nâng cao đóng góp công nghệ bức xạ cho mục tiêu phát triển bền vững.

I. TƯƠNG LAI CÔNG NGHỆ BỨC XẠ Ở VIỆT NAM

Đẩy mạnh hợp tác trong ngoài nước, giúp VINATOM làm chủ công nghệ, thúc đẩy đổi mới công nghệ, giảm chi phí đầu tư. Việc hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp, nhất là các cơ sở sản xuất và xuất khẩu cũng giúp giảm chi phí, nâng cao hiệu quả cạnh tranh, nâng cao năng suất yếu tố tổng hợp TFP trong chuỗi giá trị. Việc phát triển công nghệ thông tin, làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0, cho phép người tiêu dùng hiểu rõ hơn về ưu điểm và tính lành của công nghệ chiếu xạ thực phẩm, giúp mở rộng thị trường thực phẩm chiếu xạ trong nước. Bên cạnh đó, những tiến bộ gần đây đã làm cho máy chiếu xạ chùm điện tử (EB) trở nên tin cậy hơn, cũng như cóthể chuyển hóa chùm điện tử thành tia X, với khả năng đâm xuyên tương tự tia gamma, hứa hẹn việc sử dụng máy chiếu xạ dùng điện năng, loại bỏ lo lắng của người tiêu dùng về nhiễm xạ. Điều này giúp mở rộng thị trường không chỉ đối với thực phẩm chiếu xạ mà cả một số sản phẩm bảo quản bằng bức xạ khác. Việc hoàn thiện các quy định, tiêu chuẩn liên quan đến kiểm soát hóa chất độc hại, ô nhiễm môi trường cũng tạo điều kiện để phát triển công nghiệp chiếu xạ khử trùng y tế. Thiết bị EB và máy chiếu tia X làm tăng tốc độ và hiệu quả khử trùng y tế sẽ mở ra tương lai thay thế các công nghệ lạc hậu, ô nhiễm như khử trùng bằng EtO.

 

Hình 3. Hợp tác nghiên cứu và triển khai ứng dụng công nghệ gia tốc
(Trái: Xử lý chiếu xạ chùm điện tử EB  tại Vinagamma; Phải: Bảo dưỡng máy gia tốc cyclotron tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội)

 

Việc làm chủ công nghệ gia tốc, phát triển ứng dụng máy gia tốc chùm điện từ và thiết bị chiếu xạ tia X giúp đẩy mạnh các ứng dụng chiếu xạ liều cao và suất liều cao như biến đổi đặc tính vật liệu polyme. Điều này giúp mở rộng các ứng dụng chiếu xạ cắt mạch tạo các chất có hoạt tính sinh học mới như chất kích kháng bệnh thực vật, chất điều chỉnh đáp ứng miễn dịch của động vật, tác nhân dẫn truyền tín hiệu trong đáp ứng của động thực vật với dịch bệnh. Quá trình khâu mạch bức xạ cũng dễ dàng đạt được với công nghệ chùm điện tử giúp tạo ra các loại vật liệu khâu mạch bền nhiệt, bền bức xạ, vật liệu có hiệu năng cao dùng trong các quá trình công nghiệp, vật liệu siêu hấp thụ nước và các hợp chất nông nghiệp, các hệ dẫn thuốc nguồn gốc hydrogel. Ghép mạch bức xạ sẽ được khai thác nhằm chế tạo các polyme đa chức, vật liệu hấp thụ dùng trong xử lý nước thải và thu hồi kim loại quý, các hệ xúc tác thân thiện môi trường, màng ngăn trong pin nhiên liệu… Công nghệ này cũng giúp nâng cao hiệu quả chế tạo vật liệu nano bằng xử lý chiếu xạ như nano bạc, nano vàng, nanoselen, nhằm tạo ra các sản phẩm có hoạt tính sinh học dùng trong nông nghiệp, công nghiệp và y tế.

Trước vấn nạn ô nhiễm môi trường gia tăng cùng với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, cần thiết phải áp dụng các tiến bộ công nghệ mới để kiểm soát ô nhiễm. Trong khi các hệ thống xử lý thải hiện chưa thật sự hiệu quả trong kiểm soát ô nhiễm, công nghệ bức xạ với khả năng chuyển hóa một số khí thải, phân hủy nhanh chóng các hợp chất hữu cơ độc hại, tiêu diệt các loại vi sinh vật gây bệnh trong nước thải, bùn thải góp phần hạn chế ô nhiễm một cách hiệu quả. Nghiên cứu bước đầu về xử lý rác thải sinh hoạt, xử lý nước thải dệt nhuộm tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội và Vinagamma đã chứng tỏ được hiệu quả của biện pháp chiếu xạ gamma và EB trong việc kiểm soát ô nhiễm đối với rác thải và nước thải. Cùng với các ứng dụng mới của công nghệ bức xạ trên máy gia tốc, chắc chắn triển vọng ứng dụng công nghệ bức xạ ở Việt Nam trong những năm tới là rất lớn, và được ước tính tăng trưởng khoảng 10-20% mỗi năm, nâng cao đóng góp vào nền kinh tế, dù vẫn còn rất khiêm tốn so với trên 4000 tỷ Yên của Nhật Bản, và trên 70 tỷ USD của Hoa Kỳ theo số liệu năm2005.

KẾT LUẬN

Thông quá các chương trình hợp tác, trao đổi cán bộ nghiên cứu trước năm 2000, ưu điểm và hiệu quả của xử lý chiếu xạ đã được khẳng định và ứng dụng công nghệ bức xạ đã phát triển rất nhanh ở Việt Nam từ sau năm 2000, với sự phát triển của ngành công nghiệp xử lý chiếu xạ, giúp đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Hiện nay, công nghệ bức xạ gần như đã được ứng dụng trong mọi lĩnh vực đời sống, từ nông nghiệp, công nghiệp tới y dược và kiểm soát ô nhiễm môi trường, góp phần nâng cao chất lượng sống cho người dân, đảm bảo an ninh lương thực trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, cũng như các lĩnh vưc khác, công nghệ bức xạ cũng gặp nhiều khó khăn thách thức trong thời gian tới, nhất là về khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, đổi mới và phát triển các ứng dụng thực tiễn nên đóng góp của công nghệ bức xạ ở Việt Nam vẫn rất khiêm tốn so với nhiều nước khác như Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ. Việc tiếp tục thực hiện các mục tiêu trong “Chiến lực thúc đẩy ứng dụng năng lượng nguyên tử” cũng như các kế hoạch phát triển ngành đúng đắn sẽ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ bức xạ cho mục tiêu phát triển bền vững, và gia tăng đóng góp của ngành công nghiệp non trẻ vào nền kinh tế quốc dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. David Manas, Miroslav Manas, Michal Stanek, Michal Danek. Modification  of  Polymer Properties by Irradiation Properties of Thermoplastic Electromer after Radiation Cross- linking. Asian Journal of Chemistry 25(9):5124- 5128

2. Đặng Đức Nhận, Võ Văn thuận. Áp dụng công nghệ bức xạ chế tạo vật liệu PE khâu mạch. Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất “Vật lý và Kỹ thuật hạt nhân”, Hà Nội, 1996. 477-480.

3. Đặng Quang Thiệu, Trần Minh Quỳnh. Nghiên cứu triển khai ứng dụng năng lượng nguyên tử tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội. Hội thảo quốc gia lần thứ II ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Hà Nội, 2016. 59-65.

4. A.G. Chmielewski. Future developments in radiation processing. In Applications of ionizing radiation in materials processing. 2017, 501-515.

5. YongxiaSun and A. G. Chmielewski, Organic Pollutants Treatment from Air Using Electron Beam Generated Non-thermal Plasma – Overview. Chem. Listy 102, s1524−s1528 (2008). 

6. Tamikazu Kume. Economic Scale of Radiation Application in Japan. Journal of Radiation Industry 2011, 5 (3); 191~196. 

Trần Minh Quỳnh-Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội